Ngày 01/12/2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng chủ trì Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) lần thứ hai tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia. Về phía tỉnh Yên Bái, tham dự Hội nghị có đồng chí Trần Huy Tuấn - Chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí Đoàn Hữu Phung - Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, lãnh đạo các sở Công Thương, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Giao thông vận tải; Nông nghiệp và PTNT, lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh.
Toàn cảnh Hội nghị
Hội nghị tập trung thảo luận về Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể quốc gia; giúp “mở đường”, chủ động kiến tạo phát triển, với tư duy mới, tầm nhìn mới để tạo ra cơ hội mới, động lực phát triển mới và giá trị mới cho vùng.
Quy hoạch vùng TDMNPB đã làm rõ cấu trúc phát triển tổng thể của vùng với 4 tiểu vùng, 6 hành lang kinh tế (4 hành lang chính và 2 hành lang phụ), 3 vành đai và hệ thống các cực tăng trưởng, các trung tâm gắn với các tiểu vùng và vùng. Đặc biệt quy hoạch đã chú trọng giải quyết các vấn đề liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; tái tổ chức không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững. Quy hoạch vùng cũng là căn cứ quan trọng để đề xuất kế hoạch đầu từ công trung hạn giai đoạn 2026-2030, đặc biệt là các dự án lớn, có tính liên vùng.
Đồng chí Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phát biểu tại Hội nghị
Hiện nay, các thách thức và cơ hội mới đan xen lẫn nhau như xu hướng trân trọng sự đa dạng sắc tộc, coi sự đa dạng là một lợi thế trong kinh tế sáng tạo, xu hướng phát triển thuận thiên, chuyển đổi xanh, tuần hoàn, tín chỉ các-bon; chuyển dịch chuỗi cung ứng tới Việt Nam; khả năng thu hút đầu tư vào ngành mới do nâng cấp quan hệ đối tác; các xu hướng du lịch quốc nội và quốc tế…
Trong bối cảnh đó, để phát triển vùng TDMNPB quan trọng nhất cần nhận thức đúng về vị thế, đặc trưng, tiềm năng và thách thức của vùng. Quy hoạch vùng TDMNPB đã nghiên cứu và đưa ra những nhận diện, đề xuất có tính mới, tập trung vào 6 nội dung như sau:
Thứ nhất, cụ thể hóa những nội dung trong Quy hoạch tổng thể quốc gia đã được Quốc hội thông qua và kế thừa, phát huy những nội dung ưu việt trong quy hoạch vùng thời kỳ trước, Quy hoạch vùng TDMNPB đã đề xuất phân vùng thành các tiểu vùng chi tiết hơn để tạo ra các khu vực có liên kết chặt chẽ và có khả năng chia sẻ hạ tầng hiệu quả hơn; theo đó, đã làm rõ cấu trúc phát triển tổng thể của vùng với 04 tiểu vùng, 06 hành lang kinh tế (04 hành lang chính và 02 hành lang phụ), 03 vành đai và hệ thống các cực tăng trưởng, các trung tâm gắn với các tiểu vùng và vùng.
Thứ hai, đề ra chiến lược vùng về sinh thái và môi trường, với quan điểm xác định cảnh quan hùng vĩ, môi trường trong lành và một hệ thống rừng quy mô lớn là đặc trưng nổi bật của vùng. Những đặc trưng này phải được phản ánh trong các mục tiêu phát triển của vùng, là kim chỉ nam định hướng cho các ngành kinh tế trong vùng như: Hình thành các hành lang phát triển sinh thái liên tỉnh, liên vùng thông qua kết nối những khu vực sinh thái trọng điểm và rừng phòng hộ bằng những hành lang xanh, cải thiện dịch vụ rừng và bảo vệ đa dạng sinh học; cải thiện chất lượng rừng phòng hộ quanh khu vực rừng đặc dụng và các khu bảo tồn nhằm tăng đa dạng sinh học, để triển khai rộng rãi các loại hình cung cấp dịch vụ môi trường rừng mới, như: dịch vụ hấp thụ các-bon, dịch vụ hệ sinh thái rừng, đồng thời tạo cảnh quan hấp dẫn hỗ trợ du lịch sinh thái; tại các hành lang phát triển sinh thái, nghiên cứu kế hoạch bảo tồn quy mô địa phương, đặc biệt tại các khu vực gần cao tốc và đường sắt.
Thứ ba, có chiến lược vùng để bảo tồn, phát huy sự đa dạng văn hóa và phát triển nguồn nhân lực. Việc phát triển và khai thác nguồn nhân lực phải đi liền với bảo tồn và khai thác các giá trị văn hóa bản địa - là một trong ba khâu đột phá bên cạnh hạ tầng, kinh tế và môi trường. Chất lượng giáo dục và mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ của vùng cần được cải thiện để không thấp hơn mức bình quân chung của cả nước; cải thiện chất lượng giáo dục, y tế; nâng cao trình độ lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động; giữ gìn, khai thác, phát huy các tri thức bản địa của các dân tộc như tri thức về dược liệu, y học cổ truyền, lâm nghiệp. Phát triển các ngành kinh tế dịch vụ và thủ công nghiệp cần gắn liền với phát huy và bảo tồn đặc trưng các dân tộc, các địa phương, liên kết du lịch giữa các địa phương, các tiểu vùng trên cơ sở tài nguyên du lịch nổi bật và hệ thống giao thông kết nối. Phát triển đô thị cần phát huy được bản sắc và tiềm năng riêng của địa phương, tránh trở thành các phiên bản chưa hoàn thiện của đô thị miền xuôi về mặt kiến trúc, cảnh quan, dẫn đến sự kém hấp dẫn về chất lượng sống và chất lượng không gian cho cư dân và du khách.
Thứ tư, nông nghiệp là trụ cột phát triển kinh tế quan trọng của vùng, cần được phát triển theo hướng bền vững hơn; tránh theo xu hướng tối đa hóa sản lượng, quan tâm hơn đến chất lượng, hiệu quả; cơ cấu ngành nông nghiệp nên tránh nặng về thâm canh lúa với năng suất tuy cao nhưng chi phí lớn và giá trị gia tăng thấp; đảm bảo tài nguyên đất và nước không bị khai thác cường độ cao gây suy thoái và ô nhiễm. Khuyến khích sản xuất nông nghiệp tập trung và theo hướng hàng hóa đồng thời kết hợp với công nghiệp chế biến tại những khu vực có quỹ đất canh tác lớn và kết nối giao thông thuận lợi để tạo giá trị kinh tế lớn; khuyến khích nông nghiệp truyền thống, đặc sản, hữu cơ có giá trị cao ở những khu vực có quỹ đất hạn chế và đặc trưng văn hóa nổi bật để có thể kết hợp với du lịch trải nghiệm và hướng đến thị trường tiêu dùng cao cấp đồng thời đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ trước các biến động của kinh tế và bảo vệ hệ sinh thái địa phương.
Thứ năm, tăng cường tỉ trọng cơ cấu các ngành phi nông nghiệp, phát triển công nghiệp và dịch vụ với các quy mô phù hợp địa phương, nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp tại chỗ, hình thành các chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn thiện, và tối ưu hóa thu nhập cho người dân và doanh nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo tại khu vực động lực là vành đai công nghiệp Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ; trong đó xây dựng Bắc Giang thành trung tâm công nghiệp bán dẫn của vùng và một trong trung tâm công nghiệp bán dẫn của cả nước. Nghiên cứu khả năng khai thác, chế biến sâu đất hiếm phục vụ cho công nghiệp bán dẫn và xuất khẩu. Phát triển các khu cửa khẩu Lào Cai, Hữu Nghị trở thành trung tâm thương mại – dịch vụ, trung tâm logistics của vùng và cả nước với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Phát triển du lịch đặc trưng gắn với sinh thái, văn hóa, lịch sử và sự liên kết giữa các tiểu vùng trên cơ sở liên kết về tài nguyên du lịch nổi bật và hệ thống giao thông kết nối.
Thứ sáu, kết cấu hạ tầng của vùng cần được dần dần hoàn thiện tương xứng với yêu cầu phát triển. Kết nối hạ tầng giao thông nội vùng, liên vùng cần được đầu tư để đảm bảo việc lưu thông, vận chuyển người và hàng hóa, giảm sự cách biệt lớn giữa các địa phương trong vùng. Ưu tiên phát triển, hoàn thiện các tuyến cao tốc xương sống của mỗi tiểu vùng; nâng cấp kết nối Đông – Tây. Nghiên cứu mở kết nối quốc tế qua Lào; bổ sung tuyến cao tốc và đường sắt trong vành đai giữa; bổ sung đường kết nối về phía biển nhằm liên kết nhanh nhất các tỉnh vùng núi xa xôi với vùng ven biển, các sân bay, cảng và các cửa khẩu quan trọng, trong đó ưu tiên nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận với Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Hữu Nghị…
Trên cơ sở kết quả Hội nghị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tập trung nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch vùng để sớm tổ chức thẩm định và trình phê duyệt theo quy định./
Ngọc Thuỷ
Ngày 01/12/2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng chủ trì Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) lần thứ hai tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia. Về phía tỉnh Yên Bái, tham dự Hội nghị có đồng chí Trần Huy Tuấn - Chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí Đoàn Hữu Phung - Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, lãnh đạo các sở Công Thương, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Giao thông vận tải; Nông nghiệp và PTNT, lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh.Hội nghị tập trung thảo luận về Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể quốc gia; giúp “mở đường”, chủ động kiến tạo phát triển, với tư duy mới, tầm nhìn mới để tạo ra cơ hội mới, động lực phát triển mới và giá trị mới cho vùng.
Quy hoạch vùng TDMNPB đã làm rõ cấu trúc phát triển tổng thể của vùng với 4 tiểu vùng, 6 hành lang kinh tế (4 hành lang chính và 2 hành lang phụ), 3 vành đai và hệ thống các cực tăng trưởng, các trung tâm gắn với các tiểu vùng và vùng. Đặc biệt quy hoạch đã chú trọng giải quyết các vấn đề liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; tái tổ chức không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững. Quy hoạch vùng cũng là căn cứ quan trọng để đề xuất kế hoạch đầu từ công trung hạn giai đoạn 2026-2030, đặc biệt là các dự án lớn, có tính liên vùng.
Đồng chí Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phát biểu tại Hội nghị
Hiện nay, các thách thức và cơ hội mới đan xen lẫn nhau như xu hướng trân trọng sự đa dạng sắc tộc, coi sự đa dạng là một lợi thế trong kinh tế sáng tạo, xu hướng phát triển thuận thiên, chuyển đổi xanh, tuần hoàn, tín chỉ các-bon; chuyển dịch chuỗi cung ứng tới Việt Nam; khả năng thu hút đầu tư vào ngành mới do nâng cấp quan hệ đối tác; các xu hướng du lịch quốc nội và quốc tế…
Trong bối cảnh đó, để phát triển vùng TDMNPB quan trọng nhất cần nhận thức đúng về vị thế, đặc trưng, tiềm năng và thách thức của vùng. Quy hoạch vùng TDMNPB đã nghiên cứu và đưa ra những nhận diện, đề xuất có tính mới, tập trung vào 6 nội dung như sau:
Thứ nhất, cụ thể hóa những nội dung trong Quy hoạch tổng thể quốc gia đã được Quốc hội thông qua và kế thừa, phát huy những nội dung ưu việt trong quy hoạch vùng thời kỳ trước, Quy hoạch vùng TDMNPB đã đề xuất phân vùng thành các tiểu vùng chi tiết hơn để tạo ra các khu vực có liên kết chặt chẽ và có khả năng chia sẻ hạ tầng hiệu quả hơn; theo đó, đã làm rõ cấu trúc phát triển tổng thể của vùng với 04 tiểu vùng, 06 hành lang kinh tế (04 hành lang chính và 02 hành lang phụ), 03 vành đai và hệ thống các cực tăng trưởng, các trung tâm gắn với các tiểu vùng và vùng.
Thứ hai, đề ra chiến lược vùng về sinh thái và môi trường, với quan điểm xác định cảnh quan hùng vĩ, môi trường trong lành và một hệ thống rừng quy mô lớn là đặc trưng nổi bật của vùng. Những đặc trưng này phải được phản ánh trong các mục tiêu phát triển của vùng, là kim chỉ nam định hướng cho các ngành kinh tế trong vùng như: Hình thành các hành lang phát triển sinh thái liên tỉnh, liên vùng thông qua kết nối những khu vực sinh thái trọng điểm và rừng phòng hộ bằng những hành lang xanh, cải thiện dịch vụ rừng và bảo vệ đa dạng sinh học; cải thiện chất lượng rừng phòng hộ quanh khu vực rừng đặc dụng và các khu bảo tồn nhằm tăng đa dạng sinh học, để triển khai rộng rãi các loại hình cung cấp dịch vụ môi trường rừng mới, như: dịch vụ hấp thụ các-bon, dịch vụ hệ sinh thái rừng, đồng thời tạo cảnh quan hấp dẫn hỗ trợ du lịch sinh thái; tại các hành lang phát triển sinh thái, nghiên cứu kế hoạch bảo tồn quy mô địa phương, đặc biệt tại các khu vực gần cao tốc và đường sắt.
Thứ ba, có chiến lược vùng để bảo tồn, phát huy sự đa dạng văn hóa và phát triển nguồn nhân lực. Việc phát triển và khai thác nguồn nhân lực phải đi liền với bảo tồn và khai thác các giá trị văn hóa bản địa - là một trong ba khâu đột phá bên cạnh hạ tầng, kinh tế và môi trường. Chất lượng giáo dục và mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ của vùng cần được cải thiện để không thấp hơn mức bình quân chung của cả nước; cải thiện chất lượng giáo dục, y tế; nâng cao trình độ lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động; giữ gìn, khai thác, phát huy các tri thức bản địa của các dân tộc như tri thức về dược liệu, y học cổ truyền, lâm nghiệp. Phát triển các ngành kinh tế dịch vụ và thủ công nghiệp cần gắn liền với phát huy và bảo tồn đặc trưng các dân tộc, các địa phương, liên kết du lịch giữa các địa phương, các tiểu vùng trên cơ sở tài nguyên du lịch nổi bật và hệ thống giao thông kết nối. Phát triển đô thị cần phát huy được bản sắc và tiềm năng riêng của địa phương, tránh trở thành các phiên bản chưa hoàn thiện của đô thị miền xuôi về mặt kiến trúc, cảnh quan, dẫn đến sự kém hấp dẫn về chất lượng sống và chất lượng không gian cho cư dân và du khách.
Thứ tư, nông nghiệp là trụ cột phát triển kinh tế quan trọng của vùng, cần được phát triển theo hướng bền vững hơn; tránh theo xu hướng tối đa hóa sản lượng, quan tâm hơn đến chất lượng, hiệu quả; cơ cấu ngành nông nghiệp nên tránh nặng về thâm canh lúa với năng suất tuy cao nhưng chi phí lớn và giá trị gia tăng thấp; đảm bảo tài nguyên đất và nước không bị khai thác cường độ cao gây suy thoái và ô nhiễm. Khuyến khích sản xuất nông nghiệp tập trung và theo hướng hàng hóa đồng thời kết hợp với công nghiệp chế biến tại những khu vực có quỹ đất canh tác lớn và kết nối giao thông thuận lợi để tạo giá trị kinh tế lớn; khuyến khích nông nghiệp truyền thống, đặc sản, hữu cơ có giá trị cao ở những khu vực có quỹ đất hạn chế và đặc trưng văn hóa nổi bật để có thể kết hợp với du lịch trải nghiệm và hướng đến thị trường tiêu dùng cao cấp đồng thời đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ trước các biến động của kinh tế và bảo vệ hệ sinh thái địa phương.
Thứ năm, tăng cường tỉ trọng cơ cấu các ngành phi nông nghiệp, phát triển công nghiệp và dịch vụ với các quy mô phù hợp địa phương, nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp tại chỗ, hình thành các chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn thiện, và tối ưu hóa thu nhập cho người dân và doanh nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo tại khu vực động lực là vành đai công nghiệp Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ; trong đó xây dựng Bắc Giang thành trung tâm công nghiệp bán dẫn của vùng và một trong trung tâm công nghiệp bán dẫn của cả nước. Nghiên cứu khả năng khai thác, chế biến sâu đất hiếm phục vụ cho công nghiệp bán dẫn và xuất khẩu. Phát triển các khu cửa khẩu Lào Cai, Hữu Nghị trở thành trung tâm thương mại – dịch vụ, trung tâm logistics của vùng và cả nước với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Phát triển du lịch đặc trưng gắn với sinh thái, văn hóa, lịch sử và sự liên kết giữa các tiểu vùng trên cơ sở liên kết về tài nguyên du lịch nổi bật và hệ thống giao thông kết nối.
Thứ sáu, kết cấu hạ tầng của vùng cần được dần dần hoàn thiện tương xứng với yêu cầu phát triển. Kết nối hạ tầng giao thông nội vùng, liên vùng cần được đầu tư để đảm bảo việc lưu thông, vận chuyển người và hàng hóa, giảm sự cách biệt lớn giữa các địa phương trong vùng. Ưu tiên phát triển, hoàn thiện các tuyến cao tốc xương sống của mỗi tiểu vùng; nâng cấp kết nối Đông – Tây. Nghiên cứu mở kết nối quốc tế qua Lào; bổ sung tuyến cao tốc và đường sắt trong vành đai giữa; bổ sung đường kết nối về phía biển nhằm liên kết nhanh nhất các tỉnh vùng núi xa xôi với vùng ven biển, các sân bay, cảng và các cửa khẩu quan trọng, trong đó ưu tiên nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận với Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Hữu Nghị…
Trên cơ sở kết quả Hội nghị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tập trung nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch vùng để sớm tổ chức thẩm định và trình phê duyệt theo quy định./
Ngọc Thuỷ